Kết quả triển khai thúc đẩy phát triển công nghệ chiến lược; khu công nghệ cao; trung tâm đổi mới sáng tạo; cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KH&CN; và công tác đề xuất kinh phí cho KH-CN, ĐMST&CĐS

Trong bối cảnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngày càng giữ vai trò then chốt đối với năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm tự chủ chiến lược và phát triển nhanh, bền vững đất nước, việc thúc đẩy phát triển các công nghệ chiến lược; xây dựng, vận hành hiệu quả các khu công nghệ cao, trung tâm đổi mới sáng tạo; đổi mới cơ chế đặt hàng nhiệm vụ khoa học và công nghệ; cũng như bảo đảm nguồn lực tài chính cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là những nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Trong thời gian qua, quán triệt chủ trương của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là các nghị quyết, chiến lược lớn về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng.

I. KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG NGHỆ CHIẾN LƯỢC

1. Về hoàn thiện thể chế phát triển công nghệ chiến lược

Quốc hội đã thông qua Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, lần đầu tiên xác lập khái niệm pháp lý về công nghệ chiến lược, tạo cơ sở ban hành danh mục và hệ thống chính sách ưu tiên phát triển, đồng thời khẳng định chủ trương bố trí nguồn lực ổn định từ ngân sách nhà nước cho các chương trình công nghệ chiến lược.

Luật cho phép triển khai nhiệm vụ đặc biệt, chương trình đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định, áp dụng cơ chế quản lý linh hoạt như đặt hàng theo kết quả, khoán chi theo sản phẩm đầu ra, hỗ trợ theo gói và chấp nhận rủi ro có kiểm soát. Đồng thời, luật quy định cơ chế giải mã, mua công nghệ chiến lược, thuê chuyên gia trong và ngoài nước với thủ tục đặc thù, không ràng buộc bởi cơ chế tài sản công.

Luật cũng thiết lập mô hình tổng công trình sư, trao quyền toàn diện về kỹ thuật, nhân lực và tài chính cho cá nhân có năng lực vượt trội; quy định cơ chế thu hút, đãi ngộ đặc biệt đối với nhân tài và ưu tiên giao nhiệm vụ cho tổ chức có năng lực huy động đội ngũ chuyên gia trình độ cao.

Về hạ tầng, Luật quy định đầu tư trọng điểm cho phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu, khu thử nghiệm phục vụ công nghệ chiến lược theo mô hình mở, dùng chung, gắn với doanh nghiệp; ưu tiên sản phẩm công nghệ chiến lược trong mua sắm công và hỗ trợ chi phí thử nghiệm, kiểm định, chứng nhận.

Bộ Khoa học và Công nghệ đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội Luật Công nghệ cao (sửa đổi), thể chế hóa chính sách phát triển công nghiệp chiến lược, quy định cơ chế giao nhiệm vụ trực tiếp, ưu đãi đặc biệt đối với doanh nghiệp công nghệ chiến lược, hỗ trợ sở hữu trí tuệ, phòng thí nghiệm dùng chung, đào tạo nhân lực và nghiên cứu – phát triển từ ngân sách nhà nước.

2. Xây dựng Danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược

Bộ Khoa học và Công nghệ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục công nghệ chiến lược và Danh mục sản phẩm công nghệ chiến lược tại Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025, gồm 11 nhóm công nghệ và 35 nhóm sản phẩm, làm căn cứ phân bổ nguồn lực, xây dựng chương trình nghiên cứu – phát triển và định hướng thu hút đầu tư, hợp tác quốc tế.

Thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư, Bộ đã báo cáo và được chấp thuận lựa chọn 04 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược ưu tiên triển khai ngay, gồm:

(1) LLM và trợ lý ảo tiếng Việt, AI Camera xử lý tại biên, robot di động tự hành;

(2) Hệ thống và thiết bị mạng di động 5G;

(3) Hạ tầng blockchain và các ứng dụng truy xuất nguồn gốc, tài sản mã hóa;

(4) Thiết bị bay không người lái (UAV).

Ngoài ra,  trên cơ sở rà soát, Bộ KH&CN đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bổ sung công nghệ và thiết bị AI xử lý tại biên (Edge AI) vào danh mục công nghệ và sản phẩm công nghệ chiến lược.

3. Xây dựng chương trình quốc gia phát triển công nghệ chiến lược

Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ Chương trình khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển sản phẩm công nghệ chiến lược ưu tiên triển khai ngay cho 06 sản phẩm công nghệ chiến lược chủ chốt.

Chương trình hướng tới mục tiêu làm chủ công nghệ lõi, phát triển sản phẩm có tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng cao, thay thế nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu; hỗ trợ hình thành một số ngành công nghiệp công nghệ chiến lược có năng lực cạnh tranh quốc tế, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh và tự chủ công nghệ quốc gia.

Song song đó, Bộ đang xây dựng Chương trình quốc gia phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược với vai trò là chương trình khung tổng thể, tập trung đầu tư có trọng điểm cho 11 nhóm công nghệ chiến lược, lấy sản phẩm công nghệ chiến lược làm trung tâm để lựa chọn công nghệ lõi cần làm chủ và hình thành các ngành công nghiệp mới.

4. Phát triển hạ tầng nghiên cứu, thử nghiệm phụ vụ công nghệ chiến lược

Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng đề án phát triển hệ thống trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm và phòng thí nghiệm quốc gia tập trung cho công nghệ chiến lược. Đề án hướng tới hình thành mạng lưới phòng thí nghiệm trọng điểm theo hướng tập trung, đồng bộ, hiện đại, đạt chuẩn quốc tế, có khả năng thử nghiệm, kiểm chứng, chuyển giao công nghệ và kết nối hiệu quả giữa nghiên cứu – ứng dụng – sản xuất.

5. Nhận thức và tổ chức thực hiện

Nhận thức về vai trò của công nghệ chiến lược ngày càng rõ nét; các bộ, ngành đã chuyển mạnh từ đầu tư dàn trải sang tập trung nguồn lực cho các công nghệ, sản phẩm có tính đột phá, lan tỏa và giá trị dài hạn. Nhiều chương trình khoa học và công nghệ đã được điều chỉnh theo hướng lấy sản phẩm, hiệu quả ứng dụng và thương mại hóa làm trung tâm. Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ chiến lược tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu trong nước và từng bước làm chủ công nghệ.

II. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG NGHỆ CAO

1. Vai trò của khu công nghệ cao ngày càng được khẳng định

Các khu công nghệ cao tiếp tục phát huy vai trò là hạt nhân thu hút đầu tư công nghệ cao, nghiên cứu – phát triển, đào tạo nhân lực chất lượng cao và ươm tạo doanh nghiệp công nghệ. Nhiều khu công nghệ cao đã trở thành điểm đến của các tập đoàn công nghệ lớn trong và ngoài nước, góp phần hình thành hệ sinh thái gắn kết giữa sản xuất – nghiên cứu – đổi mới sáng tạo và thị trường.

2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và hạ tầng cho khu công nghệ cao

Công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội trong các khu công nghệ cao tiếp tục được quan tâm; các cơ chế ưu đãi về đất đai, thuế, đầu tư, nghiên cứu và phát triển từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý theo hướng tăng quyền tự chủ, đẩy mạnh phân cấp, đồng thời gắn trách nhiệm của ban quản lý với hiệu quả thu hút đầu tư và kết quả đổi mới sáng tạo.

Luật Công nghệ cao (sửa đổi), được Quốc hội thông qua ngày 10/12, gồm 6 chương, 27 điều, đánh dấu bước chuyển từ cách tiếp cận “khuyến khích chung” sang “đầu tư trọng điểm” và “quản lý, kiểm soát thực chất”. Luật bổ sung hai khái niệm then chốt là công nghệ chiến lược và công nghiệp chiến lược, qua đó cho phép Nhà nước tập trung nguồn lực vào các công nghệ có tính đột phá, lan tỏa, tạo lợi thế cạnh tranh quốc gia lâu dài, gắn với yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Theo quy định mới, công nghệ chiến lược phải đáp ứng các tiêu chí cao hơn công nghệ cao thông thường, bao gồm khả năng hình thành ngành, chuỗi giá trị mới và làm chủ công nghệ lõi trong nước. Trên cơ sở đó, Luật thiết lập hệ thống danh mục công nghệ chiến lược, sản phẩm công nghệ chiến lược bên cạnh danh mục công nghệ cao, làm căn cứ áp dụng mức ưu đãi cao nhất và bố trí nguồn lực ngân sách có trọng tâm, trọng điểm.

Luật cũng đổi mới mạnh mẽ cơ chế thực thi thông qua việc bổ sung cơ chế hợp tác công – tư, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox), tạo điều kiện cho doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ trong khu công nghệ cao và khu nông nghiệp công nghệ cao. Đồng thời, hệ thống doanh nghiệp được phân loại rõ ràng, gồm doanh nghiệp công nghệ chiến lược và các nhóm doanh nghiệp công nghệ cao với mức ưu đãi khác nhau, gắn với yêu cầu nội địa hóa, chi cho nghiên cứu và phát triển và làm chủ công nghệ.

Chính sách ưu đãi đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển được mở rộng và cụ thể hóa, bao gồm ưu đãi thuế, đất đai, hỗ trợ phòng thí nghiệm dùng chung, ưu đãi đối với nhân lực R&D, cũng như mở rộng phạm vi nghiên cứu sang giải mã công nghệ. Các doanh nghiệp công nghệ chiến lược và doanh nghiệp công nghệ cao nhóm ưu tiên được hưởng mức ưu đãi cao nhất và được ưu tiên trong đấu thầu, mua sắm công, đặc biệt đối với sản phẩm công nghệ chiến lược.

Luật sửa đổi đượ   c đánh giá sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho doanh nghiệp có hoạt động R&D thực chất và làm chủ công nghệ, đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp FDI chuyển từ mô hình gia công sang tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị thông qua chuyển giao công nghệ và đầu tư nghiên cứu tại Việt Nam. Ngược lại, các doanh nghiệp chỉ thực hiện lắp ráp, không đầu tư nghiên cứu sẽ khó tiếp cận các chính sách ưu đãi.

Bên cạnh đó, Luật tăng cường phân quyền cho địa phương trong việc thành lập, mở rộng và điều chỉnh khu công nghệ cao, qua đó nâng cao tính chủ động, linh hoạt trong quy hoạch và phát triển. Đi đôi với quyền hạn được mở rộng là trách nhiệm của địa phương trong bố trí quỹ đất, đầu tư hạ tầng kết nối và xây dựng hệ sinh thái công nghệ cao, bảo đảm hiệu quả và tính bền vững của các khu công nghệ cao theo tiêu chuẩn mới.

III. VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC TRUNG TÂM ĐỔI MỚI SÁNG TẠO

Trung tâm Đổi mới sáng tạo (TTĐMST) có chức năng kết nối, huy động nguồn lực trong và ngoài nước nhằm hỗ trợ tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân thực hiện hoạt động đổi mới sáng tạo. Hoạt động trọng tâm gồm: khảo sát, phân tích nhu cầu và tư vấn giải pháp đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, sở hữu trí tuệ; kết nối cung – cầu công nghệ, chuyên gia, viện, trường, doanh nghiệp; hỗ trợ ứng dụng, cải tiến công nghệ, ươm tạo công nghệ và khởi nghiệp; phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, cơ sở dữ liệu và hạ tầng thông tin phục vụ chuyển giao công nghệ.

1. Về cơ chế công nhận Trung tâm đổi mới sáng tạo

TTĐMST được công nhận theo ba cấp độ: cơ sở, cấp tỉnh và cấp quốc gia, với thời hạn hiệu lực 05 năm. Thẩm quyền công nhận thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đối với cấp quốc gia và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với cấp tỉnh, cơ sở.

Việc công nhận căn cứ vào tiêu chí tối thiểu về nhân lực, năng lực kết nối và kết quả hoạt động hằng năm; đồng thời, các TTĐMST phải bảo đảm hạ tầng kỹ thuật, không gian làm việc và hạ tầng số đáp ứng yêu cầu.

2. Quản lý và tài chính đối với nhiệm vụ đổi mới sáng tạo

Nhiệm vụ đổi mới sáng tạo sử dụng ngân sách nhà nước được thực hiện theo các phương thức: tài trợ, đặt hàng hoặc giao tổ chức khoa học và công nghệ công lập chủ động. Cơ quan quản lý bảo đảm công khai, minh bạch trong phê duyệt, giám sát và đánh giá; tổ chức thực hiện chịu trách nhiệm về kết quả và hiệu quả sử dụng kinh phí.

Thông qua Quỹ đổi mới sáng tạo, ngân sách nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp bằng các hình thức phù hợp, như hỗ trợ lãi suất vay và voucher thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ đổi mới sáng tạo. Quy trình xét duyệt nhiệm vụ được thực hiện trong thời hạn tối đa 30 ngày.

3. Về phát triển mạng lưới TTĐMST

Mạng lưới TTĐMST ở trung ương và địa phương từng bước được hình thành, đóng vai trò kết nối Nhà nước – doanh nghiệp – viện, trường – startup, thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao và thương mại hóa công nghệ. Các TTĐMST được tổ chức theo mô hình đa dạng, gắn với nhu cầu ngành, lĩnh vực và địa phương, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm, định hướng thị trường.

IV. ĐỔI MỚI CƠ CHẾ ĐẶT HÀNG NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Nghị định số 267/2025/NĐ-CP được ban hành nhằm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15, tập trung vào quản lý chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST) sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN). Trong đó, cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KH&CN là phương thức quản lý quan trọng, bảo đảm nhiệm vụ được triển khai bám sát mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và yêu cầu thị trường.

Cơ chế đặt hàng cho phép cơ quan quản lý xác định ngay từ đầu mục tiêu, sản phẩm đầu ra và tiêu chí đánh giá, làm cơ sở giao trực tiếp nhiệm vụ cho tổ chức, doanh nghiệp có đủ năng lực thực hiện, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN và tính ứng dụng của kết quả nghiên cứu.

1. Cơ sở và nguyên tắc xác định nhiệm vụ đặt hàng

Nhiệm vụ KH&CN và ĐMST sử dụng NSNN được thực hiện theo ba hình thức: tài trợ, đặt hàng hoặc triển khai trên cơ sở hợp tác giữa các tổ chức, doanh nghiệp. Trong đó, hình thức đặt hàng được áp dụng đối với các nhiệm vụ do cơ quan quản lý xác định mục tiêu, nội dung cụ thể và giao trực tiếp tổ chức thực hiện.

Các nhiệm vụ đặt hàng bao gồm: nhiệm vụ giải mã công nghệ phục vụ phát triển công nghệ chiến lược; nhiệm vụ mua bí quyết công nghệ; nhiệm vụ thuộc các chương trình KH&CN quốc gia; nhiệm vụ phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ chiến lược được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; nhiệm vụ đặc thù phục vụ quốc phòng, an ninh.

Việc xác định và thông báo đặt hàng căn cứ vào chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; nhu cầu phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương; yêu cầu thực tiễn quản lý nhà nước và các cam kết, thỏa thuận hợp tác quốc tế.

Cơ quan quản lý nhiệm vụ có trách nhiệm thông báo công khai kế hoạch đặt hàng, trong đó nêu rõ phạm vi, đối tượng, mức trần kinh phí NSNN hỗ trợ, loại nhiệm vụ, thời hạn thực hiện và phương thức tiếp nhận hồ sơ. Thời gian tiếp nhận hồ sơ tối thiểu là 21 ngày kể từ ngày thông báo.

Hồ sơ đề xuất nhiệm vụ đặt hàng bao gồm: đơn đăng ký; thuyết minh nhiệm vụ; dự toán kinh phí; tài liệu chứng minh năng lực pháp lý, khoa học, công nghệ và tài chính của tổ chức chủ trì. Đối với nhiệm vụ phức tạp, quan trọng, thuyết minh nhiệm vụ không quá 20 trang nội dung chính.

2. Quy trình xét duyệt và thẩm định

Sau khi tiếp nhận hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý nhiệm vụ tổ chức xét duyệt thông qua Hội đồng xét duyệt từ 07 đến 09 thành viên, bảo đảm yêu cầu về chuyên môn, tính độc lập, khách quan. Hội đồng đánh giá tính phù hợp của thuyết minh, năng lực tổ chức chủ trì, tính khả thi, khả năng khai thác kết quả và trách nhiệm đối với sản phẩm đầu ra.

Kết quả xét duyệt được thông báo cho tổ chức đề xuất trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày có biên bản Hội đồng. Trên cơ sở kết quả xét duyệt, cơ quan quản lý tổ chức thẩm định kinh phí, rà soát mức chi và sự phù hợp với quy định hiện hành, làm căn cứ phê duyệt nhiệm vụ.

Việc phê duyệt nhiệm vụ bao gồm xác định tổ chức chủ trì, phương thức khoán chi (ưu tiên khoán đến sản phẩm cuối cùng), mức kinh phí và thời gian thực hiện. Hợp đồng giao nhiệm vụ được ký kết trong thời hạn quy định, là cơ sở pháp lý để tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện.

3. Cơ chế đặc thù đối với nhiệm vụ phát triển công nghệ chiến lược, sản phẩm công nghệ chiến lược.

Đối với nhiệm vụ phát triển công nghệ chiến lược thuộc chương trình quốc gia, cơ chế đặt hàng được áp dụng với quy định đặc thù nhằm rút ngắn thời gian triển khai. Kinh phí được sử dụng cho hoạt động chế tạo, thử nghiệm sản phẩm và chi phí dự phòng trong tổng kinh phí nhiệm vụ. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được xem xét quyết định rút ngắn thời gian xét duyệt, phê duyệt và ký hợp đồng giao nhiệm vụ.

Cơ chế đặt hàng theo Nghị định số 267/2025/NĐ-CP góp phần định hướng sử dụng NSNN tập trung, hiệu quả cho các nhiệm vụ chiến lược, đồng thời thiết lập khuôn khổ quản lý minh bạch, lấy kết quả đầu ra và hiệu quả ứng dụng làm tiêu chí đánh giá chủ yếu.

4. Ý nghĩa và tác động của cơ chế đặt hàng

Việc triển khai cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KH&CN và ĐMST theo Nghị định số 267/2025/NĐ-CP có ý nghĩa quan trọng trong đổi mới phương thức quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cơ chế này chuyển mạnh từ cách tiếp cận “đề xuất từ dưới lên” sang “định hướng từ trên xuống” gắn với nhu cầu phát triển quốc gia, ngành, lĩnh vực và địa phương; đồng thời tăng cường vai trò chủ động của cơ quan quản lý trong việc xác định mục tiêu, sản phẩm và kết quả đầu ra.

Thông qua đặt hàng, nhiệm vụ KH&CN được thiết kế bám sát yêu cầu thực tiễn, có địa chỉ ứng dụng rõ ràng, góp phần khắc phục tình trạng nghiên cứu dàn trải, thiếu liên kết với sản xuất, kinh doanh và quản lý nhà nước. Cơ chế này cũng tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào quá trình nghiên cứu, phát triển và thương mại hóa công nghệ, qua đó thúc đẩy hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo lấy doanh nghiệp làm trung tâm.

V. CÔNG TÁC ĐỀ XUẤT KINH PHÍ CHO KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ

Nghị định số 265/2025/NĐ-CP được ban hành nhằm quy định chi tiết về cơ chế tài chính và đầu tư trong lĩnh vực khoa học, công nghệ (KH&CN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST), góp phần hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN), đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng.

Cơ chế đề xuất và phân bổ kinh phí theo Nghị định được xây dựng trên nguyên tắc tích hợp chặt chẽ giữa kế hoạch phát triển trung hạn với lập dự toán ngân sách hằng năm; chuyển mạnh từ quản lý theo đầu vào sang quản lý theo mục tiêu, kết quả đầu ra; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tập trung và hiệu quả trong sử dụng nguồn lực nhà nước.

1. Cơ sở lập kế hoạch và đề xuất kinh phí

Việc xây dựng kế hoạch và đề xuất kinh phí NSNN cho hoạt động KH&CN và ĐMST được thực hiện trên cơ sở chiến lược phát triển KH&CN gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Kế hoạch 05 năm về KH&CN và ĐMST được xây dựng dựa trên việc đánh giá toàn diện nhu cầu nghiên cứu, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo từ thị trường, doanh nghiệp và xã hội, làm căn cứ xác định các lĩnh vực, nhiệm vụ ưu tiên đầu tư.

Hằng năm, căn cứ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và khả năng cân đối NSNN, Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xác định định hướng ưu tiên, cơ cấu phân bổ ngân sách cho KH&CN và ĐMST, bảo đảm tập trung nguồn lực cho các nhiệm vụ trọng điểm, công nghệ chiến lược và các chương trình có khả năng tạo đột phá.

2. Cơ chế phân bổ và quản lý kinh phí

Kinh phí NSNN cho KH&CN và ĐMST được phân bổ theo nhiều tiêu chí, bao gồm: cấp ngân sách (ngân sách trung ương và ngân sách địa phương); cấp quản lý (chương trình, nhiệm vụ quốc gia; chương trình, nhiệm vụ của bộ, ngành và địa phương); tính chất chi (chi đầu tư phát triển và chi sự nghiệp); lĩnh vực hoạt động (nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo, dịch vụ KH&CN); và cơ chế triển khai (đặt hàng, tài trợ, hợp tác quốc tế).

Quy trình lập dự toán NSNN cho hoạt động KH&CN và ĐMST được thực hiện hằng năm theo hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ. Dự toán kinh phí đối với các nhiệm vụ mới được xác định trên cơ sở tổng mức kinh phí của các nhiệm vụ tương tự trong ba năm liền kề, trừ trường hợp các chương trình, nhiệm vụ đặc biệt theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Đối với các nhiệm vụ thường xuyên, dự toán kinh phí được xây dựng căn cứ vào khối lượng công việc, định mức chi, nhân lực và điều kiện cơ sở vật chất.

3. Phương thức sử dụng kinh phí và cơ chế đặc thù

Nghị định quy định áp dụng rộng rãi phương thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng đối với các nhiệm vụ thực hiện theo cơ chế đặt hàng và tài trợ, bao gồm toàn bộ các khoản chi cần thiết để hoàn thành sản phẩm theo cam kết. Cơ chế này tạo điều kiện tăng quyền chủ động cho tổ chức chủ trì, đồng thời nâng cao trách nhiệm trong việc sử dụng kinh phí và bảo đảm kết quả đầu ra.

Bên cạnh đó, phạm vi chi NSNN được mở rộng để hỗ trợ toàn bộ chu trình đổi mới sáng tạo, bao gồm đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN; chuyển giao, giải mã công nghệ; bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ; hỗ trợ lãi suất vay và các hình thức hỗ trợ tài chính khác cho hoạt động ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Đối với các nhiệm vụ, chương trình đặc biệt, nội dung chi đặc thù được áp dụng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

4. Đánh giá chung

Cơ chế đề xuất và phân bổ kinh phí theo Nghị định số 265/2025/NĐ-CP thể hiện bước đổi mới căn bản trong quản lý tài chính KH&CN và ĐMST, từng bước khắc phục tình trạng phân bổ dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư NSNN. Việc gắn phân bổ kinh phí với mục tiêu, kết quả và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ góp phần thúc đẩy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm giải trình của các tổ chức, cá nhân tham gia.

Tuy nhiên, cơ chế này cũng đặt ra yêu cầu cao đối với năng lực tổ chức thực hiện, công tác theo dõi, đánh giá và hậu kiểm; đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và các quỹ chuyên trách nhằm bảo đảm tiến độ, hiệu quả giải ngân và sử dụng nguồn lực.

Nhìn chung, Nghị định số 265/2025/NĐ-CP đã tạo lập khuôn khổ pháp lý quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư công cho KH&CN và ĐMST, làm cơ sở thúc đẩy phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong giai đoạn tới.

VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Thực tiễn triển khai trong thời gian qua cho thấy, việc thúc đẩy phát triển công nghệ chiến lược; xây dựng và vận hành các khu công nghệ cao, trung tâm đổi mới sáng tạo; đổi mới cơ chế đặt hàng nhiệm vụ khoa học và công nghệ; cùng với hoàn thiện cơ chế đề xuất, phân bổ và sử dụng kinh phí cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo nền tảng thể chế và thực tiễn cho giai đoạn phát triển mới.

Hệ thống pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện đại, tiệm cận thông lệ quốc tế, đặc biệt là việc lần đầu tiên xác lập khái niệm, danh mục và cơ chế ưu tiên đối với công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược. Cơ chế quản lý đã có sự chuyển dịch rõ nét từ tiếp cận theo đầu vào sang tiếp cận theo mục tiêu, sản phẩm và kết quả đầu ra; từ nghiên cứu dàn trải sang tập trung nguồn lực cho các công nghệ, sản phẩm có tính nền tảng, đột phá và lan tỏa.

Các khu công nghệ cao và trung tâm đổi mới sáng tạo từng bước khẳng định vai trò là hạt nhân của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia; doanh nghiệp ngày càng được đặt ở vị trí trung tâm của quá trình nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và thương mại hóa công nghệ. Cơ chế đặt hàng nhiệm vụ khoa học và công nghệ được triển khai ngày càng thực chất, góp phần nâng cao tính ứng dụng, hiệu quả và trách nhiệm giải trình trong sử dụng ngân sách nhà nước.

Những kết quả nêu trên phù hợp với tinh thần cốt lõi của Nghị quyết số 57-NQ/TW, đó là: phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thực sự trở thành động lực then chốt của tăng trưởng nhanh, bền vững; là nền tảng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm tự chủ chiến lược và đưa đất nước phát triển bứt phá trong giai đoạn mới.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn triển khai cũng cho thấy còn tồn tại một số hạn chế, thách thức cần tiếp tục được tháo gỡ, đặc biệt là yêu cầu tập trung nguồn lực cho công nghệ chiến lược; nâng cao năng lực tổ chức thực hiện; tăng cường liên kết giữa các chủ thể trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; và bảo đảm đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả và bền vững.

2. Kiến nghị, đề xuất theo tinh thần Nghị quyết số 57

Để tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW trong thời gian tới, xin kiến nghị một số định hướng, giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách theo hướng đồng bộ, nhất quán và đột phá.

Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số nhằm tháo gỡ kịp thời các điểm nghẽn, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các luật, nghị định và văn bản hướng dẫn. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm giải trình; mở rộng áp dụng cơ chế đặc thù, thí điểm (sandbox) đối với các công nghệ mới, mô hình mới, lĩnh vực mới có tính rủi ro cao nhưng tiềm năng đột phá lớn.

Thứ hai, tập trung nguồn lực cho phát triển công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược.

Thực hiện đúng tinh thần “đầu tư có trọng tâm, trọng điểm”, ưu tiên bố trí nguồn lực nhà nước cho các chương trình, nhiệm vụ phát triển công nghệ chiến lược, nhất là các sản phẩm có khả năng làm chủ công nghệ lõi, thay thế nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu và hình thành các ngành công nghiệp mới. Hạn chế đầu tư dàn trải, trùng lặp; gắn phân bổ nguồn lực với kết quả, hiệu quả và khả năng lan tỏa.

Thứ ba, phát huy vai trò của khu công nghệ cao và trung tâm đổi mới sáng tạo trong hệ sinh thái quốc gia.

Tiếp tục hoàn thiện mô hình quản lý khu công nghệ cao theo hướng tăng quyền tự chủ, nâng cao trách nhiệm của ban quản lý gắn với kết quả thu hút đầu tư, nghiên cứu – phát triển và đổi mới sáng tạo. Phát triển mạng lưới trung tâm đổi mới sáng tạo theo hướng mở, linh hoạt, gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực và địa phương; coi đây là hạt nhân kết nối Nhà nước – doanh nghiệp – viện, trường – startup.

Thứ tư, đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo nhu cầu thực tiễn.

Tiếp tục mở rộng áp dụng cơ chế đặt hàng đối với các nhiệm vụ có mục tiêu rõ ràng, sản phẩm đầu ra cụ thể, có địa chỉ ứng dụng xác định; ưu tiên các nhiệm vụ phục vụ công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, quốc phòng, an ninh và quản lý nhà nước. Đẩy mạnh khoán chi đến sản phẩm cuối cùng; tăng cường hậu kiểm trên cơ sở kết quả, hiệu quả thay vì kiểm soát nặng về thủ tục hành chính.

Thứ năm, bảo đảm nguồn lực tài chính ổn định, bền vững cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Triển khai hiệu quả cơ chế đề xuất, phân bổ và sử dụng kinh phí theo Nghị định số 265/2025/NĐ-CP; gắn kế hoạch trung hạn với dự toán hằng năm; đa dạng hóa nguồn lực đầu tư thông qua hợp tác công – tư, quỹ khoa học và công nghệ, quỹ đổi mới sáng tạo và các nguồn lực xã hội hóa. Đồng thời, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện, theo dõi, đánh giá và giám sát việc sử dụng ngân sách, bảo đảm hiệu quả và đúng mục tiêu.

Thứ sáu, phát triển nguồn nhân lực và đội ngũ chuyên gia cho công nghệ chiến lược.

Thực hiện hiệu quả các cơ chế thu hút, đãi ngộ nhân tài; phát huy mô hình tổng công trình sư; tạo điều kiện thuận lợi để huy động chuyên gia trong và ngoài nước tham gia các chương trình, nhiệm vụ trọng điểm. Gắn đào tạo nhân lực với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp và các ngành công nghiệp chiến lược.

Những kết quả bước đầu đạt được cùng với các định hướng, giải pháp nêu trên là cơ sở quan trọng để tiếp tục triển khai mạnh mẽ Nghị quyết số 57-NQ/TW, đưa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thực sự trở thành động lực chủ yếu của phát triển đất nước nhanh, bền vững và tự chủ trong giai đoạn mới./.

Phường Trần Nhân Tông
QR Code
Tin liên quan
1 2 3 4 5  ... 
image advertisement
image advertisement
Tin mới
Thư viện ảnh
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0