Tổng kết tình hình, kết quả thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW năm 2025 trên cả nước

I. VỀ CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH
1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 57 được thực hiện khẩn trương, quyết liệt và đồng bộ trong toàn hệ thống chính trị với quyết tâm chính trị cao nhất. Ngay sau khi Nghị quyết 57 được ban hành, Ban chỉ đạo đã tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai đến cấp xã. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thành lập 19 đoàn kiểm tra, giám sát các chuyên đề công tác trọng tâm năm 2025 trong đó có việc thực hiện Nghị quyết 57. Đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo trực tiếp chỉ đạo những định hướng chiến lược và nhiều nhiệm vụ quan trọng (quản lý và khai thác đất hiếm; phát triển UAV; an ninh mạng, bảo mật dữ liệu; thăm, làm việc tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, trung tâm công nghệ trong nước và quốc tế…). Đồng chí Thủ tướng Chính phủ quyết liệt chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện toàn diện các nhiệm vụ, nhất là thúc đẩy triển khai Đề án 06, cải cách thủ tục hành chính, phát triển kinh tế xã hội. Đồng chí Chủ tịch Quốc hội chỉ đạo các cơ quan kịp thời xây dựng, trình Quốc hội thông qua nhiều dự án luật với các chính sách quan trọng để thúc đẩy việc thực hiện Nghị quyết số 57. 
Đồng chí Thường trực Ban Bí thư chỉ đạo đẩy mạnh việc thực hiện Đề án chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng và đã đạt được một số kết quả rõ nét, ứng dụng trong các cơ quan Đảng từ Trung ương đến địa phương. Thường trực Ban Chỉ đạo đã phát huy vai trò trung tâm điều phối, chỉ đạo quyết liệt và xuyên suốt, bảo đảm mọi chủ trương, nhiệm vụ được thống nhất; trực tiếp chủ trì nhiều cuộc họp chuyên đề, cho ý kiến chỉ đạo tháo gỡ những điểm nghẽn liên ngành, tạo chuyển biến trong tổ chức thực hiện. Các đồng chí thành viên Ban chỉ đạo tích cực chỉ đạo cơ quan, đơn vị, địa phương quyết liệt triển khai Nghị quyết 57 theo chức năng, nhiệm vụ được phân công.
Cơ quan Thường trực, Tổ Giúp việc Ban Chỉ đạo, Tổ Công tác liên ngành đã tham mưu chuẩn bị nội dung, phục vụ 30 cuộc họp của Ban Chỉ đạo Trung ương, Thường trực Ban Chỉ đạo và lãnh đạo Ban Chỉ đạo để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Ban hành 08 báo cáo gửi Ban Chỉ đạo và 180 báo cáo ngày gửi các đảng ủy, cơ quan. Đặc biệt đã triển khai Hệ thống giám sát, đánh giá nq57.vn, bảo đảm theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 57 chính xác, khách quan, kịp thời từ Trung ương tới cơ sở; triển khai Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh kiến nghị, sáng kiến, giải pháp về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, góp phần xử lý kịp thời các kiến nghị và ghi nhận các sáng kiến, đóng góp của người dân và doanh nghiệp.
Hội đồng Tư vấn quốc gia đã tích cực, phát huy vai trò nghiên cứu độc lập, phân tích khách quan và đề xuất những chủ trương, định hướng lớn có cơ sở khoa học và thực tiễn. Các ý kiến của Hội đồng về pháp lý, kỹ thuật, công nghệ lõi và các giải pháp chiến lược đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện thể chế, chính sách và nâng cao chất lượng quyết sách của Ban Chỉ đạo Trung ương. 
Các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương đã quán triệt, triển khai nghiêm túc các nội dung Nghị quyết 57 theo chức năng, nhiệm vụ được giao; nhiều nơi thực hiện quyết liệt, sáng tạo mang lại hiệu quả cao (Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính, Tp. Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh….). Cộng đồng doanh nghiệp, các nhà khoa học và người dân tích cực đón nhận, hưởng ứng và tham gia thực hiện Nghị quyết 57; phong trào “Bình dân học vụ số” được triển khai sâu rộng, tạo khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) quốc gia.
2. Từ sự chỉ đạo quyết liệt của Ban chỉ đạo, các cơ quan ở cả 4 khối trong hệ thống chính trị (Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận) từ Trung ương đến địa phương đã nỗ lực triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW theo chức năng nhiệm vụ được giao với khối lượng công việc rất lớn. Năm 2025 đã thực hiện 1.227/1.298 nhiệm vụ, đạt 95% (trong đó hoàn thành 779 nhiệm vụ; đang thực hiện đúng hạn 448 nhiệm vụ), còn 71 nhiệm vụ chưa hoàn thành (chiếm 5%). Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ đạo 267 nhiệm vụ cụ thể để giải quyết những vấn đề cốt lõi về thể chế, nguồn lực, công nghệ chiến lược, hạ tầng số; các cơ quan đã thực hiện đạt 96,3%, còn 3,7% nhiệm vụ chưa hoàn thành.

II. VỀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ, CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH
Đã tạo được sự đột phá trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, tháo gỡ cơ bản những “điểm nghẽn”, rào cản cố hữu, mở ra hành lang pháp lý thông thoáng cho phát KHCN, ĐMST, CĐS. Năm 2025, các cơ quan của Chính phủ, Quốc hội và các đơn vị liên quan đã nỗ lực rất lớn để xây dựng, trình Quốc hội thông qua 30 luật (7 luật về chuyển đổi số; 8 luật về KHCN, ĐMST và 15 luật chung cho cả 2 lĩnh vực); Chính phủ đã ban hành 68 nghị định (15 về chuyển đổi số; 23 về KHCN, ĐMST và 30 chung cho cả 2 lĩnh vực); 60 thông tư (06 về chuyển đổi số; 47 về KHCN, ĐMST và 07 chung cho cả 2 lĩnh vực); Các địa phương đã ban hành 704 văn bản của (247 về chuyển đổi số; 201 về KHCN, ĐMST và 256 chung cho cả 2 lĩnh vực). Nhiều cơ chế, chính sách nổi bật đã được thể chế hoá và triển khai như: các nghị định về cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, kiến trúc chính quyền địa phương, hợp tác công - tư, đô thị thông minh và mô hình tổng công trình sư, kiến trúc sư trưởng…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, còn một số văn bản chưa được ban hành theo tiến độ như: còn 02 văn bản của cơ quan Đảng chưa hoàn thành, 06 nghị định của Chính phủ và một số thể chế, chính sách chậm, có nguy cơ chậm ban hành theo kế hoạch đề ra như: Chỉ thị về an ninh mạng, Khung chiến lược giáo dục đại học, Chương trình công nghệ chiến lược, bộ tiêu chí nội địa hóa theo ngành… Trách nhiệm thuộc về các cơ quan chủ trì xây dựng: Văn phòng Trung ương Đảng, Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Công an; Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương…
III. VỀ KẾT QUẢ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
Công tác chuyển đổi số quốc gia đã có bước tiến quan trọng. Ban chỉ đạo đã ban hành Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW ngày 19/6/2025 về thúc đẩy chuyển đổi số liên thông, đồng bộ, nhanh, hiệu quả đáp ứng yêu cầu sắp xếp tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị trong bối cảnh mô hình chính quyền địa phương 2 cấp bước đầu đi vào vận hành, cùng Mô hình liên thông số giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị (Quy định số 05-QĐ/BCĐTW ngày 27/8/2025); các Đề án chuyển đổi số trong 04 khối cơ quan được triển khai đồng bộ: (1) Khối cơ quan Đảng triển khai Đề án chuyển đổi số từ Trung ương đến cấp xã, bước đầu có những kết quả tích cực về thể chế, hạ tầng, một số nền tảng, ứng dụng được triển khai, hiện đại hóa hoạt động của Đảng trên môi trường số; (2) Khối cơ quan Quốc hội đã ban hành và triển khai Đề án chuyển đổi số, ứng dụng nhiều phần mềm, tiện ích trong các hoạt động lập pháp, từng bước xây dựng Quốc hội số hiện đại, minh bạch, hiệu quả; (3) Khối cơ quan Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã ban hành và triển khai Đề án chuyển đổi số với quy mô và mức độ thực hiện sâu rộng, từng bước được chuẩn hóa, liên thông từ Trung ương đến cơ sở; (4) Khối cơ quan Chính phủ tiếp tục triển khai các nội dung thúc đẩy Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; đồng thời đã khẩn trương rà soát, ban hành Chương trình phát triển Chính phủ số với nhiều mục tiêu cụ thể đến năm 2030, trong đó phấn đấu hoàn thành xây dựng Chính phủ số, hình thành Chính phủ thông minh trên nền tảng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo, hướng tới mô hình quản trị chủ động, dự báo, lấy người dùng làm trung tâm. Kết quả cụ thể như sau:
1. Việc thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) và cung cấp dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) có sự chuyển biến cả về quy mô và chất lượng, mang lại hiệu qủa rất thiết thực cho người dân và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vẫn còn khoảng cách lớn giữa cấp Trung ương và địa phương: địa phương đạt tỷ lệ số hóa, cấp kết quả điện tử và tái sử dụng dữ liệu mức cao, trong khi cấp bộ, ngành còn hạn chế, thậm chí rất thấp.
Đến cuối năm 2025, tỷ lệ cung cấp DVCTT trực tuyến và trực tuyến toàn trình ở cấp Trung ương đạt 53,3% và 31,36%; cấp địa phương đạt 93,9% và 45%15 (tổng số TTHC trên cả nước là 5.517). Toàn bộ các địa phương đã công bố danh mục TTHC không phụ thuộc địa giới, trong đó 18 địa phương công bố thực hiện 100% đối với TTHC thuộc phạm vi giải quyết. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 66.7/2025/NQ-CP xác định 786 TTHC được thay thế thành phần hồ sơ bằng dữ liệu và cắt giảm hồ sơ của 08 TTHC, tạo nền tảng quan trọng cho đơn giản hóa thủ tục dựa trên dữ liệu. Bên cạnh đó, các Bộ, cơ quan ngang bộ đã rà soát, thống kê có tổng số 1.800 TTHC có thành phần hồ sơ có thể khai thác từ các CSDL và 1.740 trường thông tin thuộc 21 CSDL đã sẵn sàng chia sẻ.
Tỷ lệ người dân và doanh nghiệp sử dụng DVCTT tăng mạnh với 36,5/44,5 triệu hồ sơ trực tuyến (cấp Bộ đạt 77%; cấp tỉnh đạt 86,7%); qua đó đã tiết kiệm cho nhà nước khoảng 4.100 tỷ đồng.Tuy nhiên, chất lượng cung cấp DVCTT và giải quyết TTHC vẫn còn nhiều hạn chế: 04 TTHC của Đảng trên Cổng Dịch vụ công quốc gia cần tiếp tục cải thiện để thuận tiện, triển khai thống nhất toàn quốc. 
Ở Khối Chính phủ, tỷ lệ cung cấp DVCTT toàn trình còn dưới mức trung bình; các tỷ lệ về số hóa hồ sơ, cấp kết quả điện tử và tái sử dụng dữ liệu cấp bộ còn thấp; cung cấp DVCTT cho doanh nghiệp chưa đạt mục tiêu 100%, trong khi DVCTT phi địa giới ở cấp tỉnh chủ yếu ở mức công bố danh mục, chưa đi vào vận hành thực tế.
2. Chuyển đổi số phục vụ hoạt động của hệ thống chính trị, chính quyền địa phương 2 cấp và người dân, doanh nghiệp tiếp tục được thúc đẩy
Việc hiện đại hóa nền tảng số trong toàn hệ thống chính trị đã tạo chuyển biến rõ rệt về hiệu quả quản lý, điều hành sau thời điểm sáp nhập 01/7/2025. Khối cơ quan Đảng đã số hóa 60/124 quy trình và đưa vào vận hành loạt hệ thống quan trọng. Khối Quốc hội vận hành đồng bộ hệ thống quản lý văn bản, các phần mềm phục vụ đại biểu, ứng dụng Quốc hội 2.0, phòng họp không giấy tờ và nền tảng Quốc hội số. Khối Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã rà soát 77/90 quy trình lõi, triển khai hệ thống điều hành tác nghiệp đến cấp xã và nền tảng Mặt trận số. Khối Chính phủ hoàn thiện Cổng DVCQG trở thành “một cửa số” từ 01/7/2025, tiếp tục vận hành các hệ thống giải quyết TTHC và định hình 84 nền tảng số dùng chung, đồng thời hiện đại hóa Trung tâm phục vụ hành chính công phục vụ chính quyền địa phương 2 cấp.
Tồn tại, hạn chế là: Hạ tầng và hệ thống số vẫn là điểm nghẽn lớn trong triển khai, đặc biệt ở cấp xã khi thiết bị CNTT xuống cấp, thiếu đồng bộ. Nhiều nền tảng dùng chung như Cổng DVCQG, hệ thống điều hành tác nghiệp của Đảng, ứng dụng VNeID còn lỗi, chưa thông suốt. Ở cấp bộ, ngành, các hệ thống thông tin chưa kết nối, chia sẻ dữ liệu hiệu quả, khiến cán bộ phải thao tác trên nhiều phần mềm, nhập lại dữ liệu nhiều lần, làm giảm năng suất và tăng chi phí. Phần mềm nội bộ tại nhiều cơ quan vẫn phân mảnh, thiếu liên thông, chưa đáp ứng yêu cầu quản trị hiện đại.
Sự chênh lệch lớn giữa hạ tầng quốc gia hiện đại và hạ tầng cấp bộ, ngành, địa phương còn manh mún, thiếu chuẩn hóa, vẫn còn 117 thôn, bản chưa có điện và sóng di động (trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương, Tập đoàn điện lực Việt Nam và các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương). Nhân sự CNTT và chuyển đổi số còn thiếu và yếu, đặc biệt ở cấp xã, trong khi khối lượng công việc tăng sau sáp nhập địa bàn (trách nhiệm của các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương).
3. Công tác xây dựng, tạo lập dữ liệu được đẩy mạnh
Đến nay, đã có Cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về dân cư, 08/12 CSDL theo Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW (CSDL quốc gia về doanh nghiệp, CSDL quốc gia về tài chính, CSDL hộ tịch điện tử, CSDL quốc gia về đất đai, CSDL đảng viên…) và 32/105 CSDL theo Nghị quyết 71/NQ-CP đã có nền tảng và CSDL tập trung phục vụ khai thác, tái sử dụng; 58/105 CSDL đang triển khai, bước đầu xây dựng nền tảng. Những dữ liệu nêu trên đã góp phần cung cấp các dịch vụ, tiện ích phục vụ người dân, doanh nghiệp, giúp cắt giảm chi phí, thời gian và giấy tờ, từng bước quản trị dựa trên dữ liệu.
Tuy nhiên, tiến độ xây dựng các CSDL quốc gia, chuyên ngành còn chậm, nguy cơ không hoàn thành trong năm 2025; dữ liệu chưa liên thông; các bộ ngành chưa xác định được CSDL cần ưu tiên (trách nhiệm của các bộ, cơ quan chủ quản các CSDL).
4. Hạ tầng số và các dịch vụ, tiện ích trên môi trường số phát triển mạnh
Hạ tầng số quốc gia được đầu tư phát triển, tốc độ Internet đứng Top 20 thế giới, tỷ lệ phủ sóng 5G đạt gần 59% dân số, tỷ lệ dân số trưởng thành sử dụng điện thoại thông minh ước đạt 81,5%, cùng với việc hình thành Trung tâm Dữ liệu quốc gia số 1 tạo nền tảng cho phát triển Chính phủ số và kinh tế số, mang lại hiệu quả cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, nhất là thông qua 05 nhóm tiện ích của Đề án 06: (1) Về giải quyết TTHC, cung cấp DVCTT mỗi năm tiết kiệm khoảng 2.505 tỷ đồng cho nhà nước (năm 2025 là 4.184 tỷ đồng); tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và hiệu quả; tăng cường minh bạch và hạn chế “tham nhũng vặt”; (2) Về phát triển kinh tế, xã hội, đã ứng dụng dữ liệu dân cư, CCCD gắn chip và định danh điện tử VNeID (lấy ý kiến nhân dân về nội dung sửa đổi Hiến Pháp, nội dung dự thảo các Văn kiện Đại hội XIV của Đảng trên VNeID…) đang tạo nền tảng chuyển đổi số toàn diện, giúp rút ngắn thủ tục, nâng cao hiệu quả quản lý, thúc đẩy tương tác Nhà nước - người dân - doanh nghiệp, mở ra thị trường mới cho các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam và đóng góp rõ rệt vào phát triển kinh tế số; (3) Về tiện ích phát triển công dân số, đã tập trung xây dựng hạ tầng danh tính điện tử quốc gia và thúc đẩy người dân tham gia vào môi trường số; (4) Tạo lập dữ liệu, kết nối, xác thực và chuẩn hóa dữ liệu giữa CSDL quốc gia về dân cư với các CSDL khác; (5) Phục vụ chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp.
Từ những kết quả trên cho thấy thành công chuyển đổi số không chỉ là số hóa thủ tục hành chính và dịch vụ tiện ích, mà còn nâng cao năng suất lao động, cắt giảm chi phí xã hội và hướng tới nền quản trị quốc gia hiện đại dựa trên dữ liệu. Người dân được phục vụ minh bạch, nhanh chóng trên môi trường số; doanh nghiệp hưởng lợi từ hệ sinh thái số đồng bộ, giảm chi phí và mở rộng cơ hội kinh doanh; chính quyền các cấp vận hành trên dữ liệu liên thông, đồng bộ với hạ tầng dùng chung giúp nâng cao hiệu quả điều hành và tiết kiệm ngân sách. Đây là hình mẫu chuyển đổi số cần tập trung thực hiện, trở thành động lực phát triển quốc gia và gắn kết Nhà nước với người dân, doanh nghiệp trong một không gian số thống nhất, bền vững.
Tuy nhiên, nhiều nền tảng, ứng dụng số còn thiếu thân thiện, chậm triển khai, kết nối, liên thông dữ liệu hạn chế; 04 TTHC của Đảng chưa kết nối được với các CSDL quốc gia (trách nhiệm của các cơ quan chủ quản các nền tảng số, nhất là các hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ). Việc bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng ở các bộ, ngành, địa phương còn yếu, nhiều hệ thống tồn tại lỗ hổng và bị tấn công mạng (trách nhiệm của các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương chủ quản các hệ thống thông tin). Nhận thức và kỹ năng số của người dân còn hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng DVCTT và tiến trình chuyển đổi số. 
5. Công tác phát triển nhân lực cho chuyển đổi số tiếp tục được đẩy mạnh với khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn thiện, với Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025, tạo nền tảng chính sách thu hút và phát triển nhân lực công nghệ số, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao. Bộ KHCN đang xây dựng Đề án phát triển và trọng dụng nhân tài phục vụ KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia, đồng thời điều chỉnh tiến độ trình để bảo đảm đồng bộ với Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài, cùng với ban hành Khung kiến thức, kỹ năng số cơ bản và kế hoạch, chương trình bồi dưỡng về chuyển đổi số. Bộ GDĐT ban hành Chương trình phổ cập kỹ năng số cho cán bộ, công chức, người lao động và người dân, hiện đang hoàn thiện học liệu trên Nền tảng Bình dân học vụ số. Các khóa tập huấn chuyển đổi số toàn quốc, Cổng đào tạo AI cộng đồng và các phong trào “Bình dân học vụ số”, “Ngày hội toàn dân học tập số” được triển khai rộng rãi, góp phần nâng cao mặt bằng kỹ năng số và chất lượng nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số quốc gia.
IV. VỀ KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
1. Tình hình, kết quả đạt được
a) Đã xác định cụ thể và tập trung chỉ đạo phát triển các công nghệ chiến lược (CNCL) góp phần nâng cao tự chủ quốc gia về khoa học, công nghệ Thủ tướng Chính phủ đã ban hành danh mục 11 nhóm CNCL và 35 sản phẩm CNCL. Dự thảo Chương trình quốc gia phát triển sản phẩm CNCL ưu tiên năm 2026 đang được Bộ KHCN trình Thủ tướng Chính phủ, với 6 nhóm trọng điểm: Mô hình ngôn ngữ lớn và trợ lý ảo tiếng Việt, AI camera xử lý tại biên, Robot di động tự hành (AMR), Thiết bị - hệ thống mạng 5G, Hạ tầng blockchain và UAV. Đề án Phát triển hệ thống trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm và phòng thí nghiệm quốc gia cho các công nghệ chiến lược đang được xây dựng. Nhiều bộ, ngành đã bắt đầu triển khai, doanh nghiệp, viện, trường cũng chủ động nghiên cứu, phát triển sản phẩm. Một số nhiệm vụ thí điểm đã cho kết quả bước đầu.
b) Hoạt động của doanh nghiệp KHCN, ĐMST, CĐS tiếp tục có bước phát triển. Đến cuối năm 2025, cả nước có gần 79.000 doanh nghiệp, trong đó 51.984 doanh nghiệp đang hoạt động, với 66 ngành nghề. Riêng số doanh nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội chiếm gần 70%. Trong số 51.984 doanh nghiệp đang hoạt động, được phân loại như sau: (1) Phân theo loại hình: Có 106 doanh nghiệp Nhà nước, 47.117 doanh nghiệp tư nhân, 4.761 doanh nghiệp FDI; (2) Phân theo lĩnh vực: Có 40 doanh nghiệp Công nghệ cao; 49.279 doanh nghiệp ICT, 645 doanh nghiệp KHCN, 668 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và 1.352 doanh nghiệp nghiên cứu phát triển.
Bên cạnh đó, cả nước có 962 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận KHCN (tăng thêm 42 trong năm 2025), trong đó tư nhân chiếm 98,5% và hơn 90% tự đầu tư R&D hoặc chuyển giao công nghệ bằng vốn tư nhân; góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực quốc gia. Khoảng 25% doanh nghiệp sở hữu văn bằng bảo hộ và nhiều đơn vị đã làm chủ công nghệ, thay thế nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu sản phẩm công nghệ.
(i) Mức độ tăng trưởng về số lượng và doanh thu
Trong năm 2025, các doanh nghiệp thuộc các ngành liên quan đến công nghệ thông tin, điện tử, phần mềm và nghiên cứu - phát triển tiếp tục ghi nhận xu hướng tăng trưởng cả về số lượng doanh nghiệp lẫn quy mô vốn điều lệ, phản ánh sự dịch chuyển tích cực của nền kinh tế theo hướng tri thức, đổi mới sáng tạo và công nghệ cao. Tổng thể, giai đoạn 6 tháng cuối năm 2025 cho thấy tăng trưởng đồng thời về số lượng và chất lượng doanh nghiệp KHCN, ĐMST, CĐS. Dòng vốn đang dịch chuyển mạnh vào các ngành công nghệ lõi, phần mềm, sản xuất điện tử và R&D kỹ thuật - công nghệ. Hệ sinh thái doanh nghiệp KHCN ngày càng đóng vai trò trụ cột cho ĐMST, CĐS và tăng trưởng kinh tế tri thức. Những xu hướng này tạo nền tảng thuận lợi cho việc hình thành các doanh nghiệp công nghệ quy mô lớn, doanh nghiệp spin-off từ nghiên cứu, đồng thời mở ra cơ hội cho chính sách hỗ trợ R&D, đổi mới sáng tạo và liên kết “3 Nhà” trong thời gian tới. Cụ thể:
Đối với ngành công nghệ - ICT tiếp tục dẫn đầu về số lượng doanh nghiệp, với nhóm TOP10 tập trung chủ yếu vào công nghệ số và điện tử. Trong đó, bán buôn thiết bị và linh kiện điện tử, viễn thông đứng đầu với gần 16,7 nghìn doanh nghiệp cuối năm 2025; lập trình máy vi tính tăng trưởng mạnh nhất (+5%). Ngành sản xuất linh kiện điện tử tuy có quy mô lớn nhưng tăng trưởng thấp (1,17%), biểu hiện xu hướng bão hòa về số lượng. Về vốn điều lệ, hầu hết ngành đều tăng, nổi bật là sản xuất máy vi tính và thiết bị ngoại vi (+24,68%) cùng các ngành phần mềm, lập trình, sản xuất linh kiện điện tử (tăng trên 10%); chỉ riêng bán buôn thiết bị và linh kiện điện tử, viễn thông giảm nhẹ (-1,02%). Điều này cho thấy nhiều doanh nghiệp công nghệ đang tăng cường đầu tư, mở rộng quy mô, nâng cấp năng lực sản xuất - dịch vụ, thay vì chỉ tăng về số lượng.

Đối với nhóm doanh nghiệp R&D: Tổng số doanh nghiệp R&D vẫn còn rất nhỏ, chỉ chiếm chưa đến 3% (1.378/52.455), cho thấy nhu cầu cấp bách phải thúc đẩy mạnh hơn nghiên cứu, sáng tạo và phát triển công nghệ lõi.
(ii) Về tình hình xuất nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao đạt mức ấn tượng, chủ yếu từ phụ kiện máy chủ/điện toán đám mây (15,9 tỷ USD) và thiết bị mạng lõi 5G (14,2 tỷ USD), đồng thời mở rộng sang thiết bị công nghệ hoàn chỉnh như VR/AR, UPS, thiết bị lưu trữ (trên 10 tỷ USD). Ngược lại, nhập khẩu linh kiện bán dẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (chip AI - IoT 35,25 tỷ USD; chip chuyên dụng 25,34 tỷ USD), cho thấy sự phụ thuộc lớn vào nguồn cung nước ngoài, với giá trị nhập khẩu vi mạch xử lý và các loại vi mạch khác cao gấp 20-30 lần xuất khẩu. Nhập khẩu pin lithiumion (3,29 tỷ USD) phản ánh nhu cầu tăng cho chuyển đổi xanh và thiết bị di động. 
Điểm sáng là các doanh nghiệp như Intel, Hana Micron Vina, Luxshare-ICT có xuất khẩu cao hơn nhập khẩu, tạo giá trị gia tăng thực sự, trong khi các doanh nghiệp lắp ráp điện tử lớn vẫn có giá trị gia tăng nội địa thấp. Dù vậy, sự phát triển của nhóm sản phẩm 5G, máy chủ/điện toán đám mây và VR/AR cho thấy Việt Nam đang dịch chuyển sang công nghệ mới có giá trị gia tăng cao hơn.
(iii) Một số doanh nghiệp công nghệ tiêu biểu theo 15 lĩnh vực
Dựa trên danh mục 15 lĩnh vực quan trọng, các doanh nghiệp công nghệ số tiêu biểu đã có sản phẩm đưa ra thị trường và một số doanh nghiệp đã xuất khẩu sản phẩm ra khu vực và thế giới (doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI tại Việt Nam), bao gồm: Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam; Viettel IDC; VinIT (đã sáp nhập VinBigData); Công ty Cổ phần FPT; VNG; FPT Software; Vbee; Công ty Cổ phần Tập đoàn Công nghệ CMC; Cinnamon AI; Filum AI; KMS Technology; Abivin; Olli Technology; JobHopin; Mfast; OKXE; Infoplus; Movian AI (Qualcomm); Google for Startups (Chương trình VN); Amazon Global Selling (VN); Torus AI (Chi nhánh Pháp tại VN); Cốc Cốc; Trusting Social; MISA (AMIS OneAI).
c) Hạ tầng đào tạo, nghiên cứu (viện, trường, phòng thí nghiệm) tiếp tục được quan tâm đầu tư xây dựng
Cả nước hiện có 16 phòng thí nghiệm trọng điểm, trong đó 4 phòng được Bộ KHCN xác định cần điều chỉnh toàn diện để tránh dàn trải và lãng phí nguồn lực. 
Riêng khối cơ sở giáo dục đại học thuộc Bộ GDĐT, đã hình thành 184 phòng thí nghiệm có mức đầu tư từ 10 tỷ đồng trở lên, gồm 140 phòng quy mô 10-30 tỷ, 34 phòng từ 30-100 tỷ và 10 phòng trên 100 tỷ. Về nguồn vốn, 137 phòng sử dụng ngân sách nhà nước, 3 phòng từ vốn vay Chính phủ, 43 phòng từ nguồn khác và 3 phòng kết hợp NSNN với nguồn khác. Các phòng thí nghiệm này cũng được phân loại theo nhóm Công nghệ chiến lược theo Quyết định 1131/QĐ-TTg, tạo cơ sở cho việc định hướng đầu tư và phát triển trọng tâm trong thời gian tới.
d) Các sáng kiến, đăng ký sở hữu trí tuệ ngày càng nhiều hơn 
Đến 30/11/2025, ghi nhận khối lượng xử lý đơn sở hữu công nghiệp tăng mạnh: tiếp nhận 134,5 nghìn đơn (tăng 7,9% so với cùng kỳ 2024), xử lý 232,5 nghìn đơn (tăng 101%) và cấp 76,7 nghìn văn bằng (tăng 67,9%). Toàn bộ đơn tồn và quá hạn của năm 2024 - 2025 đã được xử lý dứt điểm. Dự kiến cả năm 2025 sẽ hoàn thành 245 nghìn đơn và cấp 80,5 nghìn văn bằng. Cùng với đó, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật SHTT ngày 10/12/2025, với trọng tâm rút ngắn thời hạn xử lý41 và bổ sung quy trình thẩm định nhanh tối đa 3 tháng cho sáng chế và nhãn hiệu, hoàn thiện khung pháp lý về thế chấp quyền SHTT để vay vốn.
Qua số liệu tổng hợp về SHTT phân theo 11 nhóm CNCL, cho thấy doanh nghiệp nổi bật ở các công nghệ mới như AI, điện toán đám mây, Blockchain, chip bán dẫn và 5G/6G với số đơn, bằng tăng nhanh (giai đoạn 30/6 đến 31/10/2025), song còn hạn chế ở lĩnh vực y-sinh học và năng lượng - vật liệu. Viện, trường giữ vai trò nòng cốt trong các lĩnh vực nền tảng như AI, dữ liệu lớn, y-sinh học, đất hiếm và năng lượng - vật liệu nhưng tỷ lệ thương mại hóa thấp. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức cũng tham gia ở các lĩnh vực Blockchain, đất hiếm, an ninh mạng nhưng quy mô nhỏ.
đ) Về vận hành Cổng sáng kiến KHCN và Sàn giao dịch KHCN
Đến nay, có 309/1.000 sáng kiến được hỗ trợ kinh phí. Cổng Sáng kiến đã được vận hành với toàn bộ quy trình trực tuyến; đồng thời tích hợp quy trình bảo hộ SHTT, đăng nhập qua VNeID, kết nối dữ liệu với các hệ thống của Trung ương và Bộ; bước đầu ứng dụng AI để phân loại, phân tích sáng kiến và đã xây dựng CSDL Mạng lưới chuyên gia AI Việt toàn cầu với 155 chuyên gia.
Sàn giao dịch KHCN đã được nâng cấp, chuẩn hóa quy trình; đã thu thập, đánh giá cung - cầu công nghệ, kết nối doanh nghiệp - viện trường - chuyên gia và liên thông dữ liệu giữa Sàn Trung ương với các sàn địa phương và Cổng Sáng kiến. Bộ KHCN đang tiếp tục phối hợp các bộ, ngành, địa phương hoàn thiện cơ chế, đầu tư nâng cấp và phát triển các tổ chức trung gian để thúc đẩy thị trường KHCN.
e) Về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Công tác này có bước tiến rõ rệt khi hệ thống chính sách đã được hoàn thiện tương đối đầy đủ, đặc biệt với Nghị định 249/2025/NĐ-CP và 263/2025/NĐ-CP, tạo đột phá về đãi ngộ thông qua cơ chế thỏa thuận lương, thưởng, hỗ trợ sinh hoạt, chăm sóc sức khỏe, ưu đãi tuyển dụng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh. Các chính sách này góp phần thu hút trí thức trẻ, chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài và nâng cao tiềm lực KHCN, ĐMST quốc gia.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai nhiều đề án lớn về đào tạo nhân lực số, AI, bán dẫn, công nghệ cao và STEM; hình thành 13 mạng lưới trung tâm đào tạo, tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn như AI, bán dẫn, an ninh mạng, vật liệu mới và năng lượng tái tạo; mục tiêu đến năm 2030 đào tạo 1.000 giảng viên, 5.000 sinh viên tài năng và triển khai tối thiểu 50 đề tài nghiên cứu ứng dụng.
Năm 2025, các ngành công nghệ then chốt thu hút 132.388 sinh viên nhập học; riêng lĩnh vực bán dẫn 118.108 sinh viên. Bộ GDĐT đã tiếp nhận 62 đề xuất chương trình đào tạo bán dẫn từ 26 trường đại học, với tổng chỉ tiêu 5.884 và quy mô đạt 42.804 người học. Trong lĩnh vực AI, cả nước có 34 cơ sở đào tạo với khoảng 3.500 sinh viên đang học và 1.000 sinh viên tốt nghiệp mỗi năm. Các chương trình đào tạo kỹ sư và thạc sĩ tài năng trong STEM tiếp tục mở rộng.
Nguồn nhân lực bán dẫn đang tăng trưởng nhanh với 6.300 sinh viên chuyên ngành, 12.000 sinh viên ngành gần, 700 học viên cao học, 120 nghiên cứu sinh và 1.600 học viên các khóa ngắn hạn. Về hạ tầng R&D, hơn 30 trường đại học đã được bàn giao gần 1.000 bản quyền phần mềm thiết kế vi mạch, mang lại lợi ích cho hơn 10.000 sinh viên và giảng viên; khoảng 30 phòng thí nghiệm bán dẫn quy mô nhỏ đã được xây dựng. Giai đoạn 2026 - 2027 dự kiến hoàn thành thêm 4 phòng thí nghiệm bán dẫn dùng chung cấp quốc gia và 19 phòng thí nghiệm cấp cơ sở, tạo nền tảng cho đào tạo và nghiên cứu trong lĩnh vực bán dẫn.
g) Về thúc đẩy các mô hình hợp tác 3 Nhà và phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, khu công nghệ cao, đô thị thông minh
Ban Chỉ đạo đã giao nhiệm vụ cụ thể cho 4 đại học, 3 địa phương và các bộ, ngành nhằm thúc đẩy mô hình hợp tác “3 Nhà” - mô hình đã chứng minh hiệu quả tại nhiều quốc gia tiên tiến. Nghị định 180/2025/NĐ-CP thiết lập khuôn khổ pháp lý cho hợp tác công - tư trong KHCN và ĐMST, quy định rõ cơ chế đồng tài trợ, quyền sở hữu, sở hữu trí tuệ, dữ liệu và phân chia lợi ích, tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho mô hình này. Bộ GDĐT đã ký kết hợp tác với ĐHQG Hà Nội, ĐHQG TP.HCM và ĐH Bách khoa Hà Nội để triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW, tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu công nghệ chiến lược và xây dựng hạ tầng nghiên cứu chung; các đại học lớn đã ban hành kế hoạch thực hiện.
Hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo
Năm 2025, Việt Nam tiếp tục giữ vững vị trí 44/139 về Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII), WIPO đánh giá Việt Nam là quốc gia có chỉ số ĐMST vượt trội so với mức độ phát triển kinh tế trong 15 năm liên tiếp, tạo nền tảng vững chắc để bứt phá về năng lực hấp thụ công nghệ. Nhiều sự kiện quốc gia, quốc tế về ĐMST được tổ chức, đóng vai trò kết nối giữa startup - doanh nghiệp lớn - nhà đầu tư - đối tác quốc tế. Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia đã hỗ trợ hơn 300 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và 200 doanh nghiệp lĩnh vực AI; phát triển các hoạt động kết nối đầu tư mạo hiểm, mô hình phòng thí nghiệm dùng chung. Đã hình thành 15 mạng lưới tại 22 quốc gia, vùng lãnh thổ với hơn 2.000 thành viên, hỗ trợ tư vấn chính sách, kết nối hệ sinh thái quốc tế và xúc tiến đầu tư/đối tác cho hệ sinh thái trong nước.
Dòng vốn và cấu trúc đầu tư dịch chuyển theo công nghệ chiến lược tiếp tục mở rộng, với sự chuyên môn hóa mạnh trong các lĩnh vực công nghệ AI, Deep tech, Fintech, Agri-tech, công nghệ xanh và chuyển đổi số. Thị trường vốn tư nhân đạt 2,3 tỷ USD với 141 thương vụ; đầu tư vào AI tăng 8 lần (80 triệu USD), Agri-tech tăng 9 lần (74 triệu USD), giải pháp chuyển đổi số tăng 562%, Green tech đạt 25 triệu USD. Hiện có 72 quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam, gồm 44 quỹ nội địa và 28 quỹ ngoại. 

Về khu công nghệ cao (CNC), cả nước có 5 địa phương có khu CNC, trong đó Hà Nội có 2 khu (Hòa Lạc và CNC sinh học), TP.HCM có 2 khu (1 khu CNC và 1 khu nông nghiệp CNC và đang đề xuất mở rộng thêm 200 ha). Hạ tầng trong các khu được đầu tư tương đối đồng bộ, hình thành hệ sinh thái R&D - đào tạo - ươm tạo, với hành lang pháp lý đầy đủ từ Luật Công nghệ cao (sửa đổi) năm 2025, Nghị định 10/2024/NĐ-CP đến các chính sách đặc thù như Nghị định 74/2017/NĐ-CP và Luật Thủ đô 2024. Các tiêu chuẩn đô thị thông minh, khung kiến trúc ICT và hướng dẫn ứng dụng bản sao số đang được ban hành.
Về đô thị thông minh, năm 2025 Ban Chỉ đạo đã chỉ đạo định hướng và hoàn thiện thể chế tại 5 cuộc họp. Thủ tướng đã thành lập Tổ công tác liên ngành do Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng làm Tổ trưởng; Bộ Xây dựng trình ban hành Nghị định 269/2025/NĐ-CP, hướng dẫn tiêu chuẩn xây dựng ĐTTM, lồng ghép nội dung ĐTTM vào quy hoạch và ban hành Bộ tiêu chí ĐTTM 1.0. Bộ KHCN ban hành danh mục tiêu chuẩn, khung tham chiếu ICT và hướng dẫn thí điểm các dịch vụ ĐTTM thiết yếu. Sáu địa phương trọng điểm (Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, TP.HCM, Cần Thơ) đang xây dựng đề án, chương trình và bước đầu triển khai các hạng mục phát triển đô thị thông minh.
h) Việc triển khai Trí tuệ nhân tạo (AI - First)
Ban Chỉ đạo đã kịp thời định hướng phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo theo chiến lược AI-First, đặt mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam thuộc nhóm 30 quốc gia dẫn đầu về mức độ sẵn sàng AI. Nhóm giải pháp đột phá gồm xây dựng Luật Trí tuệ nhân tạo, sửa đổi Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển, ứng dụng AI, xây dựng hạ tầng tính toán hiệu năng cao và thúc đẩy ứng dụng AI trong các lĩnh vực trọng điểm như hành chính công, nông nghiệp, y tế, giáo dục. Đến nay đã đạt một số kết quả quan trọng: Quốc hội thông qua Luật Trí tuệ nhân tạo (10/12/2025); Văn phòng Trung ương Đảng ban hành Hướng dẫn khai thác, sử dụng AI cho cán bộ, đảng viên; Bộ KHCN đang hoàn thiện Chiến lược quốc gia về AI, đồng bộ với Luật và các văn bản pháp luật liên quan, đồng thời nghiên cứu lồng ghép Chương trình hành động chuyển đổi AI quốc gia.
2. Tồn tại, hạn chế nguyên nhân và trách nhiệm của các cơ quan liên quan
a) Về thể chế, chính sách: Nền sản xuất công nghệ cao phụ thuộc lớn vào khối FDI, giá trị gia tăng nội địa thấp, chủ yếu là gia công, lắp ráp; Mô hình hợp tác Nhà triển khai thực tế còn chưa hiệu quả, nhất là việc thương mại hóa kết quảnghiên cứu; Tỷ lệ thương mại hóa sáng chế chỉ đạt khoảng 0,1%, cực kỳ thấp so với mục tiêu 8 - 10% vào năm 2030. Nguyên nhân do quy định về tỷ lệ nội địa hóa cần được hoàn thiện bổ sung. Bộ KHCN, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính có trách nhiệm nghiên cứu đề xuất sửa đổi.
b) Về nền tảng, hạ tầng: Các phòng thí nghiệm nhìn chung đầu tư còn dàn trải, thiếu đồng bộ, xuống cấp, lạc hậu; Các khu công nghệ cao chưa tạo được sức lan tỏa và nâng cao năng lực công nghệ nội địa như kỳ vọng; Cổng Sáng kiến và Sàn Giao dịch KHCN chưa phát huy vai trò, tầm vóc. Trách nhiệm thuộc về Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo; Ban Quản lý các Khu công nghệ cao.
c) Về dữ liệu: Thiếu các bộ dữ liệu lớn, chất lượng cao để phục vụ phát triển AI, đô thị thông minh; Việc tích hợp, ứng dụng AI vào các lĩnh vực quản lý nhà nước mới ở bước đầu thí điểm; kết nối chia sẻ dữ liệu còn hạn chế giữa các ngành, lĩnh vực. Trách nhiệm thuộc về các bộ, ngành, địa phương.
d) Về tài chính: Doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận vốn; Tiềm lực KHCN nói chung của doanh nghiệp còn rất khiêm tốn. Số doanh nghiệp có trung tâm hoặc phòng thí nghiệm nghiên cứu chỉ chiếm 30%; Hoạt động của doanh nghiệp chưa tạo ra đột phá về quy mô chủ yếu tập trung ở các nhóm ngành CNTT và phần mềm.
đ) Về nhân lực: (1) Năng lực nghiên cứu và đào tạo nhìn chung còn khoảng cách lớn so với khu vực; (2) Nguy cơ thiếu hụt nhân lực R&D kế cận do số lượng nghiên cứu sinh còn hạn chế, trong khi lực lượng nghiên cứu đang già hóa; (2) Công tác đào tạo sau đại học và ngành STEM còn dàn trải, chất lượng chưa cao, chưa gắn với thực tiễn; (4) Các cơ sở đào tạo - nghiên cứu thiếu giảng viên và nhà khoa học đầu ngành, môi trường nghiên cứu hiện đại, gắn kết với doanh nghiệp; (5) Đội ngũ cán bộ quản lý KHCN, ĐMST cần được bồi dưỡng để thay đổi nhận thức và cách làm. Trách nhiệm thuộc về Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, các viện nghiên cứu, trường đại học.
e) Về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp KHCN, ĐMST, CĐS: (1) Cơ cấu doanh nghiệp mất cân đối, đông về số lượng ở ngành giáo dục, dịch vụ nhưng giá trị tạo ra thấp; (2) Lao động lớn nhưng thu nhập bình quân còn thấp, phản ánh thách thức về năng suất và chất lượng việc làm; (3) Các doanh nghiệp không trích lập hoặc trích lập rất ít vào quỹ khoa học công nghệ; (4) Số lượng doanh nghiệp R&D chưa đến 3%; (5) Năng lực làm chủ công nghệ lõi và vật liệu nguồn còn yếu. Mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn lỏng lẻo, chưa gắn với quá trình chuyển giao công nghệ. Tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm còn thấp; Chính sách tài chính chưa đủ đột phá để khuyến khích nội địa hóa; (6) Hiện có nhiều doanh nghiệp về KHCN, ĐMST, CĐS tuy nhiên không đăng ký cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp KHCN (có hơn 900/51.000 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận); (7) Số lượng doanh nghiệp ở một số ngành lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương chưa được xác định thuộc các doanh nghiệp về KHCN, ĐMST, CĐS mặc dù có hàm lượng KHCN, thậm chí hàm lượng KHCN cao như: Các ngành công nghiệp lớn (Điện, khí, hóa chất, năng lượng, đường sắt…) và thương mại điện tử….

V. VỀ TÀI CHÍNH, KINH PHÍ CHO KHCN, ĐMST, CĐS
1. Nguồn ngân sách nhà nước
Ngân sách cho KHCN, ĐMST, CĐS đã được bảo đảm ở mức 3% tổng chi ngân sách năm 2025. Cụ thể:
1.1. Về phân bổ và giải ngân vốn
a) Tổng kinh phí bố trí năm 2025 đạt 76 nghìn tỷ đồng, gồm 51 nghìn tỷ đồng dự toán đã giao và 25 nghìn tỷ đồng từ tăng thu NSTW năm 2024. Đến nay đã phân bổ 66.530 tỷ đồng, 1.180 tỷ đồng đang rà soát và 8.280 tỷ đồng chưa phân bổ.
Đối với 51 nghìn tỷ đồng: có 30 nghìn tỷ dành cho an ninh, quốc phòng và 21 nghìn tỷ gồm 14,9 nghìn tỷ ngân sách trung ương và 5,85 nghìn tỷ ngân sách địa phương.
Đối với 25 nghìn tỷ đồng: đã phân bổ 15.530 tỷ đồng (trong đó khoảng 10.346 tỷ đồng cho an ninh, quốc phòng). Cụ thể: tính đến 13/12/2025, Bộ KHCN đề xuất phân bổ 16.716 tỷ đồng (chi đầu tư 11.274 tỷ, chi thường xuyên 5.442 tỷ) cho 26 bộ, cơ quan trung ương (14.797 tỷ) và 20 địa phương (1.919 tỷ); phần còn lại khoảng 8,3 nghìn tỷ dự kiến dành cho công nghệ chiến lược. Thủ tướng đã thống nhất phân bổ 15.530 tỷ đồng (chi thường xuyên 4.257 tỷ đồng, chi đầu tư 11.274 tỷ đồng). Bộ Tài chính trình điều chỉnh giảm chi đầu tư 1.182 tỷ đồng để bổ sung chi thường xuyên.
Tình hình phân bổ dự toán chi cho các khối cơ quan năm 2025 và chuyển nguồn từ năm 2024, cụ thể: Khối Đảng 1.063 tỷ đồng; Khối Quốc hội 215 tỷ đồng; Khối Chính phủ 17.662 tỷ đồng; Khối Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội 152 tỷ đồng; địa phương 11.939 tỷ đồng; phần còn lại chủ yếu cho lĩnh vực an ninh, quốc phòng.
Đối với dự toán năm 2026: Đã bố trí 95 nghìn tỷ, đảm bảo tối thiểu 3% (ngân sách trung ương là 70.000 tỷ; ngân sách địa phương là 25.000 tỷ) và đã phân bổ 82,75/95 nghìn tỷ đồng cho từng bộ, ngành, địa phương. 
b) Tình hình giải ngân
Theo số liệu của Kho Bạc nhà nước đến ngày 19/12/2025, tổng kinh phí đã chi cho KHCN, ĐMST, CĐS và CNTT là 16.719 tỷ đồng, đạt 52% (chưa bao gồm chi trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng,…).
Cấp Trung ương: Quốc hội 11,7 tỷ đồng (lĩnh vực KHCN, ĐMST, CĐS); Mặt trận Tổ quốc 67,3 tỷ đồng (65,9 tỷ đồng lĩnh vực KHCN, ĐMST, CĐS; 1,4 tỷ đồng lĩnh vực CNTT); Khối Đảng 130,3 tỷ đồng (112,3 tỷ đồng lĩnh vực KHCN, ĐMST, CĐS; 18 tỷ đồng thuộc lĩnh vực CNTT); Khối Chính phủ 10.945 tỷ đồng (9.098 tỷ đồng lĩnh vực KHCN, ĐMST, CĐS; 1.847 tỷ đồng lĩnh vực CNTT).
Cấp địa phương: cấp tỉnh 5.565 tỷ (3.479 tỷ đồng lĩnh vực KHCN, ĐMST, CĐS; 2.086 tỷ đồng lĩnh vực CNTT), cấp xã chỉ 31,1 tỷ (17,9 tỷ đồng thuộc lĩnh vực KHCN, ĐMST, CĐS; 13,2 tỷ đồng thuộc lĩnh vực CNTT). Ngoài ra, đã bố trí 6.190,2 tỷ đồng cho Đề án 06 và 12,8 tỷ đồng cho 5 địa phương số hóa tài liệu lưu trữ.
1.2. Kinh phí đầu tư cho các phòng thí nghiệm và liên quan đến công nghệ chiến lược
a) Kinh phí cho các phòng thí nghiệm (PTN)
- Phòng thí nghiệm trọng điểm (PTNTĐ): Thủ tướng đã đồng ý bổ sung 1.023,6 tỷ đồng từ nguồn tăng thu ngân sách 2024 để đầu tư cho các PTNTĐ. 
Trong kế hoạch đầu tư công 2025, tổng vốn đầu tư phát triển dành cho các phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu đạt 888,4 tỷ đồng, chủ yếu tập trung vào hệ thống viện và trường đại học. Riêng Khu CNC Hòa Lạc được bố trí 563,2 triệu đồng từ ngân sách trung ương để hoàn thiện hạ tầng theo lộ trình.
b) Kinh phí đầu tư cho công nghệ chiến lược 
Đối với công nghệ chiến lược, ngân sách dành cho lĩnh vực đất hiếm được bổ sung 802,8 tỷ đồng cho Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cùng đề xuất bổ sung thêm 950 tỷ đồng theo Tờ trình 1162/TTr-BTC. 
Tổng kinh phí bố trí cho các công nghệ chiến lược năm 2025 đạt 934,4 tỷ đồng.
2. Tổng thể nguồn lực đầu tư và hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực KHCN Dựa trên dữ liệu kinh tế vĩ mô, dữ liệu tổng hợp từ Cục Thống kê, Cục Thuế, Cục Hải quan (Bộ Tài chính), tham khảo các phương pháp luận thống kê quốc tế (OECD, World Bank) và các nguồn tổng hợp khác:
(i) Về tổng mức đầu tư cho lĩnh vực KHCN, ĐMST, CĐS ước tính khoảng 12,4% (460 nghìn tỷ đồng) tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm tỷ trọng lớn khoảng 60,1% (274 nghìn tỷ đồng), trong khi chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển (R&D) còn thấp so với mức trung bình khu vực. (ii) Về giá trị kinh tế: Kinh tế số đã trở thành động lực tăng trưởng quan trọng, đóng góp ước tính khoảng 13,9% GDP. Tốc độ phát triển kinh tế số Việt Nam được đánh giá là nhanh nhất Đông Nam Á trong 03 năm liên tiếp, với mức tăng 3,5 lần GDP. Trong đó, thương mại điện tử tăng trưởng mạnh (Tỷ lệ thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ tăng từ 7% lên 10% giai đoạn 2021-2025); Thanh toán số đã phổ cập ở quy mô lớn (tổng giá trị thanh toán không dùng tiền mặt gấp 25 lần GDP; tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản thanh toán gần 90%); Hạ tầng viễn thông băng rộng, Internet và thiết bị thông minh được phổ cập ở mức cao. (iii) Về mức độ tự chủ: Tỷ lệ giá trị nội địa (Make in Vietnam) trong ngành công nghiệp công nghệ thông tin (ICT) đạt khoảng 31,8%. Phần lớn doanh thu vẫn đến từ hoạt động gia công, lắp ráp phần cứng của khối doanh nghiệp FDI.
3. Nhận xét, đánh giá
Đánh giá chung cho thấy kinh phí được bố trí đầy đủ (3%). Tuy nhiên, một số bộ, ngành và địa phương chưa chủ động đề xuất nhiệm vụ và đăng ký vốn đúng hạn, tiến độ hoàn thiện hồ sơ chậm do quy trình nội bộ và phê duyệt kéo dài. Tiến độ giải ngân chung còn chậm (đạt 52%; cấp xã giải ngân hơn 31 tỷ đồng), phản ánh sự mất cân đối nguồn lực. Kinh phí dành cho KHCN, ĐMST, đặc biệt công nghệ chiến lược vẫn chưa tương xứng và việc phân bổ; nhiều CSDL và nền tảng số dùng chung theo Nghị quyết 71/NQ-CP và Kế hoạch 02-KH/BCĐTW chưa được bố trí vốn, ảnh hưởng tiến độ và khả năng hoàn thành nhiệm vụ năm 2025. Hướng dẫn về cơ chế chi và bố trí vốn cho nhiệm vụ KHCN, ĐMST, CĐS còn thiếu cụ thể.
VI. HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ KHCN, ĐMST, CĐS
Năm 2025 Việt Nam đã đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KHCN với hầu hết các khu vực, đặc biệt các trung tâm công nghệ toàn cầu. 
Hợp tác song phương mở rộng mạnh mẽ: với Trung Quốc tập trung vào AI, an toàn hạt nhân, thành phố thông minh; với Nhật Bản về bán dẫn, AI, lượng tử, vệ tinh và đào tạo tiến sĩ; với Hàn Quốc ký 22 văn kiện về chuyển giao công nghệ, công nghiệp phụ trợ và hệ sinh thái ĐMST; với Mỹ triển khai Biên bản hợp tác bán dẫn và công nghệ chiến lược; với Canada về sở hữu trí tuệ; với Mỹ Latinh về ứng dụng và chuyển giao công nghệ; với châu Âu ký 28 thỏa thuận về năng lượng sạch, hàng không vũ trụ, an ninh mạng; đồng thời nâng tầm quan hệ với Nga, Pháp, Anh. Việt Nam cũng ký 13 thỏa thuận mới với Singapore, Australia, New Zealand về CĐS, công nghệ mới nổi, nông nghiệp thông minh, ứng phó biến đổi khí hậu, và xác định KHCN là cấu phần quan trọng trong hợp tác với Trung Đông - châu Phi.
Trong hợp tác đa phương, Việt Nam chủ trì Lễ ký “Công ước Hà Nội” của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm mạng, tích cực đóng góp sáng kiến tại LHQ, Mê Công, APEC, ASEAN về an ninh mạng, AI, CĐS và kinh tế số. 
Vai trò kết nối doanh nghiệp và tập đoàn công nghệ toàn cầu được phát huy, thu hút NVIDIA, Qualcomm, HP, ASML, Thales, Shin-Etsu mở trung tâm R&D, đào tạo nhân lực và hợp tác chiến lược tại Việt Nam. Công tác vận động trí thức kiều bào được triển khai với cơ chế kết nối, đặt hàng, xây dựng CSDL chuyên gia và hoàn thiện thể chế thu hút nhân tài; đồng thời hỗ trợ địa phương, doanh nghiệp mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, hợp tác nghiên cứu – đào tạo và xúc tiến thương mại. Ngoài ra, đã thành lập Tổ công tác liên ngành hỗ trợ doanh nghiệp mua lại công ty công nghệ nước ngoài; Bộ Ngoại giao ban hành Kế hoạch hành động KHCN đến 2030 và hoàn thiện Chiến lược hợp tác quốc tế về công nghệ chiến lược.
VII. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CHUNG
Nghị quyết số 57 có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng chiến lược định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn mới; được ban hành trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt và sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo cùng kinh tế số, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao năng lực tự chủ công nghệ và đổi mới tư duy phát triển.
Việc triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW trong năm 2025 đã tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, tầm quan trọng của KHCN, ĐMST, CĐS, về phương thức quản lý và hiệu quả vận hành trong toàn hệ thống chính trị, đồng thời tạo sự hứng khởi và niềm tin cho cộng đồng KHCN và ĐMST. Thể chế, chính sách cơ bản đã được khơi thông với số lượng lớn văn bản luật, nghị định, thông tư được ban hành đồng bộ, tạo hành lang pháp lý vững chắc. Chuyển đổi số toàn hệ thống chính trị dần đi vào nền nếp khi khai Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW, Quy định số 05-QĐ/BCĐTW và các kết luận của Ban Chỉ đạo cùng các chương trình, đề án chuyển đổi số của 04 khối cơ quan với nhiều kết quả tích cực cho thấy từ hạ tầng số đến cơ sở dữ liệu, các nền tảng số bước đầu phát huy hiệu quả; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ tăng mạnh, các tiện ích định danh, xác thực và sử dụng dịch vụ số tiếp tục được mở rộng, góp phần nâng cao chất lượng phục vụ, tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước (năm 2025 hơn 4.100 tỷ đồng). KHCN và ĐMST đã nhận diện được cách làm bài bản, hướng đi đúng, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới với những lĩnh vực trọng tâm về Mô hình hợp tác 3 Nhà, khu công nghệ cao, đô thị thông minh, trung tâm đổi mới sáng tạo, các công nghệ chiến lược và lựa chọn một số đơn vị có tiềm năng làm điểm để nhân rộng, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế và thúc đẩy phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nhằm huy động nguồn lực trong và ngoài nước. Sự quan tâm và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các dịch vụ, tiện ích cung cấp trên nền tảng số là tín hiệu tích cực góp phần củng cố niềm tin và khẳng định hướng đi đúng đắn của Nghị quyết 57. 
Cùng với đó, nguồn lực tài chính được tăng cường, bảo đảm ở mức 3%ngân sách nhà nước, lớn nhất trong 10 năm gần đây.
Kinh tế số từng bước là động lực tăng trưởng, với tỷ trọng trong GDP ước đạt 13,9% năm 2025. Những kết quả bước đầu đạt được trong thực hiện Nghị quyết 57 năm 2025 đã góp phần vào Tỷ trọng đóng góp của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong GDP49 ước đạt trên 16,4%. Như vậy, năm 2025 được xem như cơ bản “Hoàn thiện thể chế, khơi thông nguồn lực, tạo dựng nền tảng” cho những năm tiếp theo.
Bên cạnh những kết quả đạt được, còn tồn tại một số hạn chế mang tính hệ thống như: khoảng cách lớn giữa mục tiêu và thực tế (kinh tế số mới đạt 13,9% GDP - mục tiêu 20%; đầu tư cho R&D mới đạt 0,42% GDP - mục tiêu 2%), chất lượng dịch vụ công chưa đồng đều, thể chế chưa thẩm thấu, dữ liệu còn manh mún, tiến độ giải ngân chậm, thiếu nhân lực chất lượng cao và tư duy cũ vẫn phổ biến. 
Từ thực tiễn 2025, rút ra các bài học: (1) Vai trò lãnh đạo trực tiếp của người đứng đầu là yếu tố quyết định; (2) Thể chế phải đi trước nhưng cần linh hoạt điều chỉnh; (3) Tổ chức thực thi quan trọng ngang với xây dựng chính sách, cần chuẩn hóa quy trình và giám sát theo dữ liệu; (4) Doanh nghiệp và hệ sinh thái ĐMST là lực kéo then chốt; (5) Truyền thông, tập huấn và nâng cao kỹ năng số phải liên tục để người dân, doanh nghiệp và cán bộ cơ sở chủ động tham gia./.
 

Phường Trần Nhân Tông
QR Code
Tin liên quan
1 2 3 4 5  ... 
image advertisement
image advertisement
Tin mới
Thư viện ảnh
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0